BỐN MƯƠI NĂM TỪ THUỞ BINH NHÌ
Hoài Giang - CCB C2, D74, F304B, QKVB
Hoài Giang - CCB C2, D74, F304B, QKVB
*****
Hôm
nay 15 tháng 9 năm 2012, chúng tôi - những Cựu sinh viên trường Đại học Xây
dựng và cũng là những cựu chiến binh nhập ngũ ngày này bốn mươi năm trước -
cùng hành quân trở về xã Dương Thành huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên, nơi mà
bốn mươi năm trước chúng tôi đã đóng quân, đeo lon binh nhì và huấn luyện tròn
ba tháng trước khi đi chiến trường.
Hàng
đứng, từ trái qua: Vũ Xuân Xiển, Nguyễn Hữu Tân, Đặng Đắc Bằng, Giang Văn Đối, Nguyễn
Hữu Lương, Trần Hữu Phục, Lê Ngọc Hàm, Nguyễn Ngọc Lương, một người dân, Nguyễn Văn Long (13KT nhập ngũ tháng
9/1971, quê Phú Dương, Dương Thành Phú Bình) Trần Bảo, Nguyễn Sĩ Đình,
Nguyễn Bá Sỹ,
hai người dân, Ngô Duy
Hưng, Đoàn Đức Chính, Nguyễn Phi Cảnh (14 anh em đồng ngũ và 4 người dân)
Hàng
ngồi từ trái qua: Nguyễn Khắc Viễn, Bùi Song Long, Nông Minh Tiến, Nguyễn Ngọc Lịch,
Trần Kiến Nghiệp, một người dân, Nguyễn Mạnh Tiến (6 anh em và 1 người dân)
Ngày
ấy hơn một trăm sinh viên đang học từ năm thứ nhất đến năm thứ năm của các khoa
trong trường Đại học Xây dựng đã từ biệt giảng đường đại học để lên đường. Cuộc
tiễn đưa trong nỗi buồn sau cuộc ném bom phá hoại của giặc Mỹ xuống trường. Nhà
cháy, sách vở cháy, người chết, người bị thương, chúng tôi lên đường.
Tôi đi xe
khách Hạ Long - Thái Nguyên, xe đông cứng người vậy mà phụ xe vẫn đón khách
lên, tôi nhắn các bạn đợi tại cầu vượt Bắc Ninh
Gặp
nhau sau bốn chục năm trời, chúng tôi mừng mừng tủi tủi, tóc ai cũng bạc cả
rồi. Hơn trăm anh em, vậy mà giờ đây chẳng còn đáng là bao. Nhiều người đã nằm
lại chiến trường chẳng bao giờ về lại nơi này, họ mãi mãi nằm lại và để rồi trở
thành những thần thành hoàng làng đội mũ cối ở một vùng quê xa xôi nào
đó để rồi bà con vùng Thạnh Hóa Long An lập nên miếu Bắc Bỏ để thờ cúng gần 300
liệt sỹ của trung đoàn 207
Số
còn lại, người thành đạt, trưởng thành, người gặp nhiều khó khăn phải vất vả mà
bươn chải quăng quật với cuộc sống. Gặp nhau cười mà như mếu, la hét như trẻ
nhỏ. An ủi nhau: dù khốn khó thế nào thì vẫn còn may mắn hơn những “thằng” đã
nằm lại trong ấy.
Cầu Ca -
cây cầu mà ngày xưa chúng tôi thường lủi đi tìm kẹo lạc và nước chè
Khoe nhau
tấm ảnh nhỏ xíu đã từng trốn đơn vị ra phố Cầu Ca để chụp
cây Cầu Ca
giờ khác xưa lắm. Ngày xưa cầu bằng sắt, cao vút và nhỏ xíu.
Dòng nước
con kênh này ngày xưa trong lắm
Lại thêm
một toán nữa - Người cầm camera là đại tá Vũ Xuân Xiển, anh là sinh viên khóa 7
của trường Đại học Thông tin liên lạc được giữ lại là giảng viên của trường,
nhưng cũng nhập ngũ cùng với chúng tôi khi có lệnh tổng động viên;
"tay" đầu hói kia là Nguyễn Phi Cảnh, thằng em út trong số lính bộ
binh sang Tăng Thiết Giáp cùng tôi, giờ Cảnh đã mang quân hàm đại tá.
Nguyễn Phi
Cảnh và Giang Văn Đối (cũng cùng sang Tăng Thiết Giáp) . Cảnh đang là giảng
viên khoa quân sự của trường ĐHXD. Đối sắp nghỉ hưu ở Sơn La. Trong toán lính
SV ĐHXD sang Tăng Thiết giáp có 5 anh em: Đoàn Đức Chính, Nguyễn Phi Cảnh,
Giang Văn Đối; Lương Minh Thanh (Thanh đã mất mấy năm nay); Lê Đình Châu về hưu
sống tại Hà Nội (mình vừa nhận được tin Đặng Đắc Bằng cho biết lúc 22h00 ngày
22/9/2012: Lê Đình Châu đã mất từ tháng 2 năm 2012)
Làm
"một phát" với thằng em út hay khóc nhè vì đói năm 1973 ở văn phòng
BTL TG.
Ngày
ấy chúng tôi từ trường Hạ sĩ quan chuyển sang Tăng Thiết giáp, tiêu chuẩn gạo
ăn 24kg một tháng, khi chuyển về đại đội Công binh Thiết giáp chỉ còn ăn 18 kg
một tháng, sau nữa lại chuyển về Văn phòng Bộ tư lệnh Tăng Thiết giáp chỉ còn
ăn 13,5 kg một tháng, đứa nào cũng đói mèm, ăn rồi mà cứ tưởng chưa ăn. Đói
giáp hạt, dân đói, quân đói, tất cả cho giải phóng Miền Nam. Ngày chủ nhật anh
em chúng tôi đi cuốc đất trồng sắn. Mồ hôi thằng nào cũng vã ra như tắm. Cảnh
bé nhất và cũng là đứa háu đói nhất, nó nói với tôi bằng cái giọng miền Trung
rất đặc trưng làm tôi cũng ứa nước mắt và không thể nào quên được: Đói lắm em
không chịu được nữa rồi, kiếm cái chi ăn không thì em chết mất anh Chính ơi!
Mấy thằng chúng tôi bàn nhau cử Châu và Thanh chui qua hàng rào dây thép gai
của BTL vào làng mua khoai sắn của dân, nhưng dân đâu có dư dật gì. Châu và
Thanh nhìn đống dây khoai cho lợn có lẫn những dãi khoai to bằng ngón tay, ngón
chân mà thèm liền hỏi mua, bà con không bán mà chỉ cho thôi: Các chú luộc mà ăn
tạm cho đỡ đói. Củ khoai phải đem cân cho HTX hết rồi còn đâu. Châu và Thanh
nhào vào đống dây khoai bứt lấy bứt để những dãi khoai lang đem ra giếng lấy
"đài" múc nước rửa qua quýt rồi mượn nồi dân, xin củi của dân mà luộc
vội luộc vàng. Châu cởi áo lót đùm mớ dãi khoai chạy vội vàng rồi chui qua hàng
rào mà về chỗ chúng tôi cuốc đất trồng sắn. Chúng tôi ăn ngấu nghiến những dãi
khoai ấy. Cái đói bớt dần... Các bạn tôi trong chiến trường chắc còn đói hơn
chúng tôi nhiều lắm, đã thế lại còn bom đạn liên miên tháng ngày.
Long đen
đang truy tìm Tiến Thổ
Bây
giờ làng xóm đã thay đổi nhiều, chúng tôi khó mà tìm lại được trên thực địa xóm
làng những gì còn đọng lại trong ký ức. Chỉ còn ngọn núi Đót là vẫn đứng sừng sững.
Nhiều bà con thấy chúng tôi đến cứ ngơ ngác nhìn đây đó, bởi tên xã, tên làng
thì đây mà hình bóng ngày xưa đâu còn sau bốn chục năm qua đi. Gặp gỡ, hỏi han
về những con người ngày ấy thì bây giờ nhiều người đã ra đi từ lâu rồi, chỉ còn
lại con cháu họ.
Chụp ảnh
giữa đường làng
Đúng nơi
này!
Tôi nhận
ra cái giếng nước 40 năm trước
Và mảnh
sân kho ngày trước vẫn tập trung khi báo động hành quân.
Và tôi đã
định vị đúng ngôi nhà tôi đã sống 3 tháng tân binh 40 năm về trước. Mấy đứa nhỏ
con bác Đắc giờ đã có gia đình. Cậu con trưởng đã có cháu nội. Tiếc quá cả hai
bác không còn nữa.
Ngôi nhà tre
5 gian xưa kia đã được xây và lợp ngói mũi.
Chúng
tôi tìm đến khu nhà ăn và bếp tập thể của đơn vị, bây giờ chỉ còn lại cái giếng
nước và một mảnh sân thủa nào chúng tôi vẫn ra tập thể dục buổi sáng. Chúng tôi
tản về các xóm. Bà con tay bắt mặt mừng khi nhận ra nhau.
Tôi
lục tìm trong trí nhớ để hỏi thăm tìm về ngôi nhà xưa tôi đã ở. Ngày ấy tôi mới
hai mươi hai tuổi. Mấy đứa trẻ con nhà bác chủ chỉ lên chín lên mười lau nhau
như trứng gà trứng vịt. Bốn mươi năm qua đi thằng cu lớn bây giờ cũng đã năm chục
tuổi và đã có cháu nội rồi. Tôi hỏi mãi rồi cũng tìm được tới nhà. Ngôi nhà
ngày xưa là năm gian tre nứa. Bây giờ đã xây và lợp ngói mũi. Lũ em trứng gà
trứng vịt bây giờ đã lên ông lên bà rồi. Hai bác đã mất. Tôi chỉ còn biết lặng
lẽ thắp nén nhang trên bàn thờ hai bác để hai bác biết về sự hiện diện của tôi.
Ngày ấy cùng ở nhà này có ba anh em chúng tôi là Chung rùa, Hà bột và tôi. Hà
đã hy sinh, Chung rùa đang ở Hà Nội. Chung mệt không đi được chuyến này, chúng
tôi ở A4, B6, C2, D74, F304B. A trưởng của tôi tên là Binh sùi (mặt nhiều trứng
cá), B phó tên là Quyết còn gọi là Quyết khàn vì giọng Quyết khàn khàn và nhỏ.
Chính trị viên đại đội tên là Ngữ. Rất vui là trong chuyến đi này tôi gặp lại
Giang Văn Đối và Nguyễn Phi Cảnh - hai "thằng" cùng đi học trường Hạ
sỹ quan và cùng sang Binh chủng Tăng Thiết giáp với tôi.
MỘT SỐ
HÌNH ẢNH LÚC CHIA TAY
Nguyễn Văn
Long; Đặng Đắc Bằng
Trần Kiến Nghiệp và Nông Minh Tiến
Hẹn ngày
gặp lại
VỚT VÁT
'MỘT PHÁT" TRƯỚC CỔNG LÀNG SOI
MẤY ANH EM
CHÚNG TÔI ĐI CHẬM NÊN GHÉ VÀO QUÁN CÀ PHÊ VEN ĐƯỜNG HÀN HUYÊN TIẾP
Nguyễn Phi
Cảnh; Nguyễn Khắc Viễn; Trần Bảo; Ngô Duy Hưng
Trần Bảo
và Nguyễn Khắc Viễn đang lúc cao trào!
(LSV g/th)
Ảnh quá đẹp, họ tên chỉnh không phải chuẩn ...
Trả lờiXóaNham rui
Trả lờiXóa